CHƯƠNGVI: MỤC ĐÍCH ĐỜI NGƯỜI
MỤC ĐÍCH ĐỜI NGƯỜI Quyết định đầu tiên mỗi khách lữ hành phải thực hiện là chọn đích đến. Chỉ khi nào biết mình đi đâu, người ta mới quyết định chọn lựa mình sẽ dùng các phương tiện gì trên đường đi – xe hơi, đi bộ, tàu lửa, máy bay… Con người khôn ngoan cũng tuân thủ theo đúng phương pháp có lớp lang như thế trong việc thu xếp cuộc sống, bởi lẽ cuộc đời chính là một hành trình. Nó cũng phải có một mục đích, được lựa chọn hợp lý, kế đó ta mới quyết định sử dụng năng lực tối ưu để tới được đích đó.
Chỉ có kẻ nào biết chọn Thiên Chúa hằng sống làm mục tiêu cuộc đời mới hướng được toàn bộ hoạt động của mình vào việc cứu rỗi linh hồn. Đó cũng là hành vi lựa chọn thường tình đối với con người. Có những người, như nhân vật Macbeth của Shakespear, xem cuộc đời chỉ là “một câu chuyện kể của một người điên rồ, đầy âm thanh và cuồng nộ, chẳng có ý nghĩa gì ráo trọi”. Nhưng cũng như Macbeth, họ đi đến kết luận này chỉ vì những tội lỗi ghê gớm của họ khiến họ hãi hùng với sự phán xét sau khi chết. Chủ nghĩa vô thần là sự thể hiện khát vọng của những người không muốn mình bị “áp đặt” bởi bất kỳ ai cả, kể cả Thiên Chúa lòng lành. Không ai phủ nhận sự bất tử cả, trừ kẻ nào nhận thấy rằng chính cuộc sống của họ khiến họ hãi sợ cuộc sống đời sau. Người vô liêm sỉ không nghĩ ngợi và tin vào các niềm tin, họ tha hồ phạm tội, và rồi thừa nhận một châm ngôn nào đó để hợp-pháp-hoá tội lỗi của mình. Cứ sống trước đã, rồi sau đó ta xoay sở chế ra cách biện minh cho hành động của mình. Lý lẽ theo sau hành vi chứ không đi trước để hướng dẫn hành vi.
Nhiều kẻ vô thần và kẻ theo thuyết bất khả tri cố gắng gán ghép cho cuộc đời mình một ý nghĩa và mục đích nào đó bằng cách lựa chọn một giá trị chủ đạo tạm bợ, đơn giản và gọi đó là mục tiêu cuộc đời họ. Họ chọn ra một “đích đến”, rồi họ chỉ việc thực hiện những gì giúp họ tiến bước về đích đó. Còn kẻ tự khoan nhượng lại chọn lựa theo đuổi lạc thú suốt đời, kẻ kiêu căng thì chỉ lưu tâm làm sao để được mọi người nhìn nhận mình là thần thánh. Người ta có thể tìm ra giá trị chủ đạo của mình khá dễ dàng: đó chính là điều mà khi bị mất mát, nó sẽ làm ta buồn chán nhất, mà nếu đạt được, nó sẽ làm ta hạnh phúc nhất.
Nhiều người ngày nay cho rằng mục đích đời người là sự giàu sang. Đó quả là một “đích đến” kém cỏi, bởi nó hạ thấp phẩm giá con người, bắt con người phụng sự một thực thể thấp kém hơn chính họ - bởi lẽ của cải vật chất dĩ nhiên là hèn kém hơn nhân cách. Có người lại săn đuổi danh vọng, đó cũng không phải là mục đích sáng giá và làm ta thoả mãn được. Danh vọng không nâng được mình lên cao hơn đồng loại. Và khi chọn mục đích sống là hành động theo kiểu “người ta sao mình vậy”, thì đây chỉ là cách che đậy tình trạng suy sụp thần kinh bằng cách tự biến thành nô lệ cho công luận.
Một mục đích sống thật sự phải cứu xét đến bản chất con người: sinh ra để làm gì, và khao khát những gì. Tính năng giúp con người khác với muông thú là tri thức (khả năng tìm kiếm chân lý) và ý chí (khát khao sự thiện hảo). Nhưng ta biết rằng Chân Lý Hoàn Hảo và Sự Thiện Tối Hậu chỉ có nơi Thiên Chúa. Và ta chỉ đạt được sự viên mãn trong Ngài mà thôi. Một khi thừa nhận Thiên Chúa là giá trị chủ đạo và coi Ngài là mục đích thì hạnh phúc đạt được không chỉ giới hạn trong cõi đời chóng qua này; mà còn cho phần hồn của ta nữa. Người nhận Thiên Chúa làm mục đích cuộc đời sẽ có được an bình mà thế gian này không thể ban cho cũng như không thể tiêu huỷ được.
Một khi đã chọn Thiên Chúa làm Giá Trị Chủ Đạo rồi, ta cần phải có một khuôn thước để đo lường các hành động, để đánh giá xấu, tốt. Người “làm lành” là người hướng về Thiên Chúa, còn “làm dữ” khi quay lưng lại với Thiên Chúa. Cuộc lữ hành về với Thiên Chúa trên cõi dương gian này là sự chuẩn bị để đón nhận Ánh Sáng Quang Vinh, để cùng hưởng hạnh phúc với Thiên Chúa Vĩnh Hằng. Đó mới là mục đích thực sự cho con người. Khi nào ta dấn bước về phía Thiên Chúa, bấy giờ ta “tốt lành” nghĩa là ta đang thực thi mục đích của ta. Cây viết “tốt” khi nó viết rõ, con ngựa “hay” khi nó chạy khoẻ, nhanh. Con người “thiện hảo” khi chu toàn tốt đẹp mục đích này: hiểu biết, yêu mến, phụng thờ Thiên Chúa.
Chỉ khi nào cuộc sống của ta qui chiếu về Thiên Chúa, ta mới đánh giá đúng mức được giá trị của hành động này so với hành động kia. Người duy vật cho phép mình sống thoải mái bằng cách biến mục đích của mình là hưởng thụ khoái lạc, nhưng thực ra họ chẳng thể nào thực hiện được điều đó bởi lẽ các khoái cảm cho cá nhân sẽ dần dà mòn mỏi và vô vị. Người kiêu hãnh có lẽ mường tượng rằng quyền lực và lợi lộc sẽ thoả mãn được tâm hồn đầy tham vọng của mình. Nhưng không thể nào được, bởi lẽ những mục đích như thế chỉ càng làm họ trở nên nhẫn tâm và lừa lọc, khiến đồng loại xa lánh. Cuộc sống sẽ dần dần mất hết sinh khí và ý nghĩa nơi những kẻ tìm tòi mục đích nhỏ bé làm lẽ sống.
Nhưng khi họ tìm thấy mục đích đời mình nơi Thiên Chúa, mọi sự sẽ được lề luật yêu thương đặt định. Đam mê trổi vượt lúc này là duy trì cho được mối quan hệ thân ái – trước hết với Thiên Chúa, và kế đến với gia đình, bạn hữu, đồng nghiệp, và cả kẻ thù – vì tình yêu mến Thiên Chúa. Thế giới không còn đầy dẫy những con người và sự việc để ta áp đặt ý chí ích kỷ lên đó, mà là những tạo vật quí báu và thú vị vì rằng mỗi người, mỗi vật, qua cách này và cách khác đều giúp ta đưa cuộc hành trình về với Thiên Chúa là Cùng Đích của ta.
GIÀU SANG - QUYỀN LỰC
Thời trước, người ta ít nói đến “sống trên đời” cho bằng việc rỗi linh hồn. Họ không lưu tâm nhiều đến những vấn đề kinh tế, chính trị như chúng ta ngày nay. Họ chú tâm nhiều về những vấn đề luân lý, đạo giáo. Ngày nay, sức lôi cuốn của Trời Cao đã giảm bớt đối với nhiều người, và người ta quan tâm gắn bó với trần thế nhiều hơn. Khát vọng tìm kiếm Thiên Chúa đã và đang nhường chỗ cho khát vọng săn đuổi giàu sang, quyền lực. Thần tượng của thế kỷ này không phải là các thánh, mà là những kẻ đạt tới “đỉnh cao”.
Xoay quanh việc xác định tầm mức quan trọng cho các tiêu chuẩn thành công trên đời này, người ta có hai thái độ trái ngược nhau. Liệu có nên tôn sùng và tìm kiếm sự thành công, cho đó là điều thiện hảo nhất trong cuộc đời hay không? Hay ngược lại, phải kết án chuyện đó bởi vì nó xấu xa? Những kẻ đầy tham vọng chấp nhận thái độ cực đoan đầu. Thái độ sau là của hai nhóm phản kháng: nhóm vô chính phủ - lên án mọi thứ quyền bính, và nhóm Cộng sản – phỉ báng mọi người giàu có.
Chỉ có một tiêu chuẩn đúng đắn và đầy đủ lý lẽ để đánh giá các quan điểm trên đây. Đó chính là cuộc đời của Chúa chúng ta. Những chuyện thuật lại trong Tin Mừng cho thấy rằng quyền lực và giàu sang đều là những lý tưởng và tham vọng chính đáng, nhưng chúng phải tuân theo một số qui định mà thế gian này thường không đếm xỉa gì đến. Những qui định này được mặc khải cho ta qua cuộc đời ẩn dật của Chúa Giêsu tại Nazareth. Đó là hai điều này: không ai có thể cầm giữ quyền bính nếu kẻ ấy không học biết vâng phục, như Đức Kitô hằng vâng phục cha mẹ mình vậy. Và không ai có thể toạ hưởng giàu sang được nếu kẻ ấy không học biết cách từ bỏ nó, như Chúa đã làm, Ngài đã chọn cho mình một nghề khởi đầu là nghề thợ mộc nghèo nàn.
Vậy thì, ở đây là Uy Quyền đã trở thành Hèn Kém, Chủ trở nên nô lệ, vị Chúa Tể trở nên kẻ phục vụ. Qui phục Chúa Cha là khúc dạo đầu cho các phép lạ và quyền lực kế tiếp. Và chúng ta cũng phải bắt chước như thế. Hết thảy mọi thứ quyền lực… chính trị, công nghệ, xã hội, kinh tế… đều phải qui phục Quyền Năng trên cao và phải khép mình vào kế hoạch của Thiên Chúa trước đã, sau đó mới có thể chính đáng qui phục kẻ khác được. Quyền lực không phải được kiểm tra từ phía dưới, kiểu như thái độ thách thức vô chính phủ hoặc đảo chánh, mà chính nó phải biết tự giới hạn từ trên xuống. Quyền lực trần thế có quyền yêu cầu mọi người tuân phục chỉ khi nào biết vâng phục Đấng Toàn Năng trên cao. Quyền bính trần thế được tôn trọng khi phù hợp với ý muốn của Đấng Tạo Hoá. Kẻ cầm quyền chỉ được tôn phục khi họ biết tôn kính Thiên Chúa.
Với giàu sang cũng vậy: Chúa đã dạy ta rằng không ai trở nên giàu sang nếu họ không học biết từ bỏ nó. Những năm ẩn dật ở Nazareth không phải có ý nhắn nhủ ta phải tôn vinh sự nghèo khổ, cam chịu những điều kiện sống tồi tệ nhếch nhác, hoặc sống gian khổ trong cảnh đói rách bần hàn. Chúa chúng ta nghèo khó thật sự. Ngài lao động cật lực mới kiếm đủ ăn đủ mặc. Ngài là một thợ mộc nghèo nàn, nhưng Ngài cũng là một Thiên Chúa giàu sang, làm chủ cả thế giới. Ngài còn là vị Thiên Chúa quyền uy nhưng lại tự mình trở nên hèn kém. Giàu sang và quyền uy tự bản thân của chúng đều không có gì xấu xa, bởi vì chúng thuộc về Thiên Chúa.
Bởi thế người Cộng sản căm thù kẻ giàu có chỉ vì họ giàu. Người Cộng sản không hề tìm thấy sự tán đồng của Kitô giáo trong việc đó. Không ai có quyền khinh miệt người giàu có, nếu cũng như Chúa, họ đã chứng tỏ rằng mình không bị đam mê chiếm hữu ràng buộc… và như thế, họ cũng không muốn miệt thị ai cả. Cuộc sống đạm bạc ở Nazareth không phải là để lên án sự phú quý hoặc tôn vinh sự nghèo hèn: mà là minh hoạ cho học thuyết tuyệt diệu về việc từ bỏ. Các môn đệ theo Chúa Kitô, họ cũng dứt bỏ được của cải để tìm kiếm vinh quang Thiên Chúa, dù rằng sản nghiệp của họ chỉ vỏn vẹn một ít ngư thuyền và lưới đánh cá, và quí báu nhất là ý chí của họ.
Thiên Chúa không hề xúi kẻ nghèo chấp nhận sự nghèo đói, hay bảo ta phải đi tìm kiếm bần cùng. Ngài không tôn vinh người nghèo cũng như kẻ giàu. Nhưng Ngài đã khen ngợi người nghèo khó kia, kẻ đã một thời gian giàu sang, nay vui lòng sống nghèo khổ… chính người nghèo, do sẵn sàng từ bỏ mọi sự, mà trở thành có mọi sự - kẻ nào không muốn gì cả, lại có tất cả. Bởi vì Thiên Chúa không hề khuyên răn phải “từ bỏ” sự phú quý để được sự “hư không”; đúng hơn, Ngài thừa nhận việc đánh đổi sự phú quý để được giàu có lớn lao hơn trên Nước Trời. Ngài không bảo “Phúc cho kẻ nghèo” hay “Phúc cho kẻ giàu”. Ngài bảo “Phúc cho ai có tinh thần nghèo khó”.
Cuộc đời ẩn dật ở Nazareth không chỉ nói lên lý lẽ đơn giản về “thanh bần” hoặc “yếu hèn trong sự thánh thiện”; bản thân những điều này không phải là nhân đức theo nghĩa của đạo Công giáo. Bài học Nazareth dạy ta biết về sự giàu sang của những ai đạt tới tinh thần khó nghèo bằng sự từ bỏ và về quyền lực của những ai biết trở nên hèn kém để phục vụ anh em. Chúa của chúng ta là Đấng duy nhất từ xưa tới nay đã đồng hành với thế giới mà hết thảy những người, giàu hoặc nghèo, chủ hoặc tớ, mạnh mẽ hay yếu đuối đều được quyền gọi Ngài là Chúa, đều có quyền thành tâm gọi Ngài là đồng loại với mình, Ngài là Người như ta.
MỌI VẬT ĐỀU VỀ PHE THIÊN CHÚA
Nếu đứng về phía Thiên Chúa, ta sẽ không ngã lòng vì phía mà ta đã chọn sẽ luôn luôn chiến thắng, không bao giờ bị chê cười. Thiên Chúa là Đấng chiến thắng, và sự dữ là kẻ chiến bại. Thực tại luôn luôn đứng về phía Thiên Chúa.
Sự dữ nhất thiết là bất ổn, bởi lẽ nó đi ngược lại bản chất của mọi vật. Mọi định luật về bản tính con người của ta thúc đẩy ta hướng về phía thánh thiện, tương tự như việc giữ gìn sức khoẻ vậy. Nếu ta chăm sóc thân xác đúng cách, hợp vệ sinh, ắt chúng ta khoẻ mạnh. Nếu ta không tuân thủ, ắt sẽ đau ốm bệnh hoạn… và hẳn ít người sẽ chịu khó săn sóc thân thể nếu chưa từng bị trừng phạt và nhắc nhở do việc vi phạm cố ý các quy tắc vệ sinh gây nên.
Ta hoàn toàn tự do, có thể phá vỡ lề luật Thiên Chúa đã thiết lập, ở lãnh vực này hoặc lãnh vực khác. Nhưng ta sẽ không tránh né được sự trừng phạt do việc phá luật đó. Nhảy từ cửa sổ xuống đất không hề phá được luật hấp dẫn, nhưng liệu đấy, coi chừng mất mạng đó! Nên nhớ là bao giờ thiên nhiên cũng đứng về phía Thiên Chúa; nó có thể cưỡng lại ý muốn của ta, nhưng không khi nào chống lại Thiên Chúa. Và điều này cũng đúng như thế trong lãnh vực luân lý lẫn vật lý.
Khi người ta phạm tội, Thiên Chúa không cần can dự ra tay trừng phạt, bởi lẽ ta không thể nào chống lại Thiên Chúa mà không tự chống lại mình. Đó là bản chất con người được Thiên Chúa tạo ra như thế. Nếu ta phá vỡ qui luật tiết độ, ta sẽ bị nhức đầu. Thiên Chúa không phái cơn nhức đầu đó đến cho ta bằng một chiếu chỉ đặc biệt nào cả, Ngài đã thiết lập sẵn trong ta qui luật này: hễ làm điều xấu, sẽ nhận được hậu quả xấu xa. Thi sĩ Francis Thompson diễn tả rằng ngay cả các đồ vật cũng chống lại ta khi ta không dùng chúng đúng với mục đích của Chúa. Ông ta đã gọi các đồ vật đó là các “đầy tớ”:
“Tôi đã cám dỗ các đầy tới của Ngài,
Để rồi chỉ thấy tính kiên định của chúng phản lại tôi.
Bởi chúng trung thành với Ngài
Chúng hờ hững với tôi.
Ra chúng chân thật mà lại phản bội,
Chúng lừa dối mà lại chân thành”.
Khi thánh Phêrô chối Chúa, gà gáy làm ông đau khổ. Cả đến con gà cũng chống lại Phêrô. Thiên nhiên đứng về phe Thiên Chúa mà!
Khi ta chối bỏ lề luật luân lý, ta sẽ chịu đau khổ… Không hẳn vì ta cố ý làm xấu cho bằng vì ta đã thách thức một sức mạnh dũng lực hơn ta: đó là thực tại. Khi phạm tội, ta gây nên một hậu quả mà ta không định trước được; đối với các hành động thiện hảo thì lại không gây ra các hậu quả đó. Ví dụ, nếu tôi dùng cây viết chì để viết, nó vô hại. Nhưng nếu tôi dùng nó để đục lon sữa bò, nó sẽ gãy ngay thôi. Tôi đã dùng cây viết chì ngược với mục đích của nó, thế là tôi phá huỷ nó.
Nếu tôi sống với mục đích cao thượng hơn… phù hợp với chân lý và tình yêu… tôi sẽ hoàn thiện cuộc đời tôi. Nếu tôi chỉ biết sống theo bản năng thú vật, ắt tôi sẽ ê chề tựa như thể tôi dùng dao lam để gọt đá tảng vậy.
Sự dữ hằng tàn phá chính bản ngã ta. Nếu tôi sống đúng như tôi phải sống, tôi sống thành nhân. Nếu tôi sống tuỳ hứng, tôi trở thành thú vật, một con vật bất hạnh. Đây chẳng phải là kết quả do tôi xếp đặt, thế mà tôi vẫn không thể nào thoát khỏi được. Người ăn nhậu triền miên không hề có chủ tâm tàn huỷ sức khoẻ mình; nhưng thực sự kẻ ấy đang cố huỷ diệt mình. Kẻ tham mê ăn uống không kể gì đến bệnh tật về tiêu hoá, nhưng thực sự kẻ ấy sẽ mắc loại bệnh ấy. Tên ăn trộm không muốn bị bắt bỏ tù, nhưng rồi hắn sẽ vô tù.
Khi người lữ khách chối từ tuân theo các bảng chỉ dẫn đường đi, dĩ nhiên anh ta vẫn có thể tiếp tục dấn bước nhưng cuối cùng rồi sẽ thất vọng vì không đến được đích. Sự vô trật tự là một ông thầy nghiêm khắc, chậm rãi nhưng chắc chắn. Dân Tây Ban Nha có một câu tục ngữ “Ai phỉ nhổ Thiên Chúa là phỉ nhổ chính mình”. Sự dữ có thể chiến thắng trong chốc lát. Trận đầu nó thắng đấy, nhưng kết cục nó sẽ thua.
Caesar đã xây dựng đường xá hầu đánh thắng, chinh phục toàn thế giới bằng quân sự, nhưng trên những con đường này, thánh Phêrô và Phaolô đã đi rao giảng Tin mừng. Bởi vậy, cuối thế kỷ này ta sẽ chứng kiến các nhà khoa học và triết gia sẽ lục lọi các giỏ rác trong các đại học hầu nhặt nhạnh những Chân lý thánh thiện mà thế kỷ 18 và 19 đã loại bỏ.
Bởi lẽ sự thiện thì trường tồn, còn sự dữ thì tiêu vong. |